Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và ý nghĩa to lớn của tư tưởng,...

Tin tức - Sự kiện Học tập và làm theo tư tưởng,đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh  
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
1. Vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước
1.1. Kiên trì mục tiêu và con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi tìm đường, mở đường, dẫn đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam theo mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu và con đường duy nhất đúng ở Việt Nam sau khi các phong trào yêu nước theo tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản bị thất bại. Nâng cao bản lĩnh chính trị, tầm trí tuệ, luôn luôn đổi mới sáng tạo, không bao giờ từ bỏ mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn phải luôn luôn là quan điểm nhất quán của Đảng, trở thành hành động cách mạng của toàn Đảng, toàn dân ta trong công cuộc đổi mới. Đây là nội dung khởi đầu trong quá trình vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng ở nước ta.

1.2. Biến khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thành hiện thực

Khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đất nước “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” như tiêu đề sau dòng tên nước “Việt Nam Dân chủ Cộng hoà” của văn bản hành chính nhà nước do Người nêu lên. Trong Di chúc, Người viết điều mong muốn cuối cùng: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, cần chú trọng một số điểm sau đây:   

Cần có quyết tâm chính trị cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện sự quyết tâm cao trong cách mạng và Người đã truyền quyết tâm đó cho toàn Đảng, toàn dân. Đó là quyết tâm trong Cách mạng Tháng Tám: dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được độc lập; là “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập”[2]; là “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”[3]; là hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi; là “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!”[4]

Trong Di chúc, Người nêu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”[5]. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người luôn luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn đân tộc, vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội. Tiếp nối, nhân lên, lan tỏa sự quyết tâm đó chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Quyết tâm chính trị còn ở sự đổi mới sáng tạo thích ứng với yêu ccầu phát triển bền vững trong điều kiện mới của đất nước, điều kiện kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Nói đi đôi với làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu điều này ngay trong trang đầu cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927: “Nói thì phải làm”[6] và “xắn tay áo làm”[7] khi nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hoá,  tháng 2/1947. Hiện nay, càng cần phải chú ý khắc phục bốn biểu hiện: Nói nhiều nhưng làm ít; Nói thì hay nhưng làm thì dở; Nói mà không làm; Nói một đằng làm một nẻo. Quyết tâm phải đi liền với chương trình, kế hoạch hành động thiết thực đáp ứng đủ các điều kiện thực tế. Có nghị quyết đúng là điều rất quan trọng, nhưng chưa đủ. Có quyết tâm cũng là cần nhưng vẫn chưa đủ. Điều cần và đủ bên cạnh những yếu tố đó là kế hoạch thiết thực, tỉ mỉ, có khả năng thực thi, có tổ chức thật sự phù hợp, có sự dốc lòng, dốc sức của cả toàn Đảng, toàn dân từ khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/Thành công, thành công, đại thành công”[8]

Sự phồn vinh, hạnh phúc của cả dân tộc thể hiện ở những chỉ số tổng hợp, trong đó có cả sự bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản, ở kết quả của quá trình phấn đấu đạt mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

1.3. Tăng cường công tác xây dựng Đảng nói riêng và hệ thống chính trị nói chung trong sạch, vững mạnh

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cần thấu suốt tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”. Phải xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” để Đảng xứng đáng với vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải là những chiến sĩ tiên phong, gương mẫu trong mọi lĩnh vực, phải là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng phải nghiêm chỉnh thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Đảng ta là con đẻ của dân, không có mục đích tự thân; do đó Đảng phải có trách nhiệm hiếu với dân. Trong công cuộc đổi mới, nói đến xây dựng hệ thống chính trị còn phải nói đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đảng, với vị trí, vai trò hạt nhân của hệ thống chính trị không thể trong sạch, vững mạnh nếu Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân yếu kém. Vì vậy, để vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cần chú ý xây dựng một Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân thật sự vững mạnh.

2. Ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

2.1. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa dẫn đường cho sự phát triển bền vững của dân tộc

Tư tưởng, đạo đức, phong cách là tổ hợp các thành tố nói lên toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là những giá trị văn hóa trường tồn, dẫn đường cho dân tộc ta đi lên. Toàn Đảng, toàn dân ta tìm thấy trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh những giá trị của sự phát triển, của khát vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là những yếu tố truyền cảm hứng cho nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân trong công cuộc đổi mới, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, tiến hành nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tức là bước vào “một cuộc chiến đấu khổng lồ”[9]“chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi”[10] đúng như Người đã tiên lượng trong Di chúc. Chính vì thế, Cương lĩnh năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, hành động với phương châm “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện khi đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, khi cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh.

2.2. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là cơ sở để Đảng và nhân dân ta xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Trong tất cả các nguồn lực để phát triển thì nguồn lực con người Việt Nam là quan trọng nhất. Hệ giá trị con người Việt Nam cần xây dựng trong sự nghiệp cách mạng nói chung và trong công cuộc đổi mới giai đoạn hiện nay chính là những nội dung trên cơ sở bắt nguồn từ tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đất nước đang cần có những con người vừa có đức vừa có tài, trong đó đức là gốc, để đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững. Đó là những người yêu nước nhiệt thành, có đủ phẩm chất đạo đức cách mạng, có tầm cao trí tuệ trong một đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế. Giá trị con người đó có trong di sản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà toàn Đảng, toàn dân cần học tập và làm theo. Xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay cũng là xuất phát từ sự nghiệp giải phóng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và mục tiêu cuối cùng là giải phóng con người. Học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chính là xây dựng hệ giá trị con người Việt Nam theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

2.3. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có ý nghĩa quốc tế sâu sắc

Di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh là di sản của một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc trong phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và phong trào vì hòa bình, hợp tác và phát triển trên thế giới. Di sản đó không chỉ là tài sản quý báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là tài sản của nhân loại tiến bộ. Những vấn đề toàn cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hướng tất cả mọi người Việt Nam cũng như những người có lương tri trên thế giới thực hiện đã góp phần xây dựng một thế giới tiến bộ, văn minh. Do đó, UNESCO đã đánh giá rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau. Chúng ta đang sống trong một thế giới với nét chủ đạo là hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, nhưng vẫn còn đó những bất an hiện tại và tiếp tục có những rủi ro khó lường trong tương lai. Thế giới luôn đổi thay nhưng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi với ý nghĩa truyền cảm hứng cho sự phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, làm cho các dân tộc, mọi người thoát khỏi sự áp bức, bất công, vươn tới những giá trị chân - thiện - mỹ.​