CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN KINH TẾ BÌNH LỤC QUA CÁC THỜI KỲ LỊCH SỬ
I. Thời kỳ cổ đại
Các di tích khảo cổ trống đồng trên địa bàn huyện Bình Lục thuộc loại hê-gơ của nền văn hóa Đông Sơn (700-100 năm TrCN) chứng minh rằng, những người từ thời cổ đại Đông Sơn đến trước công nguyên vài thế kỷ đã từ vùng cao xuống khai thác vùng đồng bằng lấy lội, rừng rậm hoang vu, sông ngòi chằng chịt, trồng cây và đánh bắt cá sinh sống. Họ chọn nơi đất cao ven sông làm nơi cư trú, đóng thuyền làm phương tiện chủ yếu đi lại chuyên chở trên vùng sông nước và đã biết làm ruộng hai mùa dựa trên nền tảng kỹ thuật đồ sắt đồ đồng. Đồng thời phát triển các sản xuất đồ gỗ, tre nan chiếu cói và chế tạo đồ gốm tinh xảo, hình thành và phát triển nền văn minh lúa nước hàng ngàn năm.
II. Thời kỳ phong kiến
Trong suốt thời kỳ từ cuối thế kỷ X đến thế kỷ XX, kinh tế tiểu nông sản xuất lúa nước là những đặc trưng căn bản và bao trùm toàn bộ đời sống kinh tế xã hội của Bình Lục cũng như tình Hà Nam và cả nước. Kinh tế tiểu nông này căn bản dựa trên sở hữu ruộng đất công, tự nó đã mang nặng tính tự cấp tự túc, lại liên tục được tái tạo bởi cơ chế định kỳ phân phối ruộng đất công của làng xã, được duy trì bởi chế độ thu nộp tô thuế và các hình thức phi kinh tế khác.
Ngay từ thời Đinh Lê, bên cạnh ruộng công của làng xã, ruộng tự điền của nhà chùa còn có ruộng phong cấp của vua chúa quan lại trong triều, những người có công và những người hoàng thân quốc thích để lập ra các trang ấp. Do vậy sự phát triển của kinh tế tiểu nông gia gắn với ruộng đất công của làng xã, kinh tế nhà chùa và kinh tế trang ấp cũng phát triển mạnh, trong đó kinh tế tiểu nông gia là bộ phận chủ đạo. Thời Lý sở hữu nhà nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội, xét về hình thức là quốc hữu hóa nhưng thực chất vẫn là đất công làng xã. Nhà vua có thể lấy ruộng đất công của làng xã để cấp cho quý tộc quan lại và những người thân trong hoàng tộc để lập ra các trang ấp, thực ấp. Tại chùa Vũ bị xã Vũ Bản huyện Bình Lục còn lưu giữ hai tấm đá gọi là Thạch Kiệt, phục dựng năm 1513. Nội dung chép các mảnh ruộng vua ban cho Nghĩa quốc công Đào Cam Mộc được cấp 31 mẫu 8 thước ở 5 xứ đồng; công chúa Thềm Hoa được cấp 13 mảnh ruộng tổng 110 mẫu 5 xào 8 thước ở 4 xã An Nội, Bồ Đề, An Ninh, Đồn Xá. (1)
Trong các trang ấp, thực ấp, người dân công xã lệ thuộc vào chủ, phục dịch, đóng tô, thuế và làm gia binh cho chủ, Nhưng quan hệ giữa nông dân trong trang ấp thực ấp với chủ vẫn do nhà vua điều chỉnh bao gồm mức tô, thuế, lao dịch cũng như nông dân tự do.
Thời Trần nhà vua còn ban cấp, phong cấp cho các vương gia tôn thất và các quan lại triều đình được ban quốc tính để làm thái ấp. Trong số khoảng 11 thái ấp có thái ấp của thái sư Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (tên nôm là Làng Vọc nay là làng Thành Thị, Xã Vũ Bản, Huyện Bình Lục ). Ở đây người được phong đất có quyền hưởng tô thuế, hoa lợi mà không phải đóng thuế cho nhà nước. Quy mô của các thái ấp ở Bình Lục thường không lớn và ở đó vẫn tồn tại kinh tế tiểu nông gia trên cơ sở tự cung tự cấp. Thái ấp của Trần Thủ Độ ở Quắc Hương là vùng chiêm trũng (2). Căn cứ vào các địa danh và các di tích thời Trần còn sót lại có thể thấy thái ấp rộng khoảng 3km, hẹp về phía Đông Tây dài theo hướng Bắc Nam. Trong thái ấp bên cạnh nghề nông là chính còn có các nghề đánh cá, chạm khắc đá và nấu rượu, có chợ (Quắc thị - tức là chợ Vọc ngày nay), có sông (sông Cụt), có đình (Đình Cả), có chùa (chùa Sông), trại lính và khu dinh thự, phủ đệ. Trong thái ấp luôn có một lực lượng đông đảo gia binh, gia nô, nô tì phục dịch, khi hoà bình thì lao động sản xuất, khi quốc gia hữu sự thì sung làm lính tráng.
Cùng với phong cấp đất cho vương hầu tôn thất, nhà Trần cũng khuyến khích họ khai khẩn đất hoang lập nên điền trang nhằm hình thành phòng tuyến chính trị, quân sự, kinh tế xã hội theo mạch đường sông nối liền kinh đô với quê hương Tức Mạc (giáo sư Trần Quốc Vượng). Trên đất Bình Lục cũng có một số điền trang được tạo lập. Việc khuyến khích vương hầu tôn thất lập điền trang và khởi xướng cho phép bán ruộng công cho nhà giàu làm ruộng tư cũng mở đường xuất hiện sở hữu ruộng đất của địa chủ, người giàu và sở hữu nhỏ của một bộ phận tiểu nông gia.
Đến thời Hậu Lê, chế độ ruộng đất ở Bình Lục bao gồm ruộng nhà nước, ruộng công của làng xã và ruộng tư. Ruộng công nhà nước là ruộng quan điền được kinh doanh dưới hình thức đồn điền. Năm Tân Sửu 1481 vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu lập 43 đồn điền trong cả nước, trong đó ở Bình Lục có một đồn điền ở xã La Sơn (1). Ruộng công làng xã được phân phối cho người sử dụng theo chế độ quân điền định kỳ 6 năm một lần, được điều chỉnh phân phối cho các đối tượng sử dụng từ quan tam phẩm đến thứ dân, người sử dụng đất phải nộp tô cho nhà nước. Cuối thời Hậu Lê còn có ruộng lộc điền thay cho thái ấp thời Trần. Nhà Lê chú trọng khuyến khích khai hoang, xây dựng đê điều và các công trình thuỷ nông để khai thác vùng đầm lầy phía đông nam đất Hà Nam hiện nay.
Từ thời Lê bắt đầu hình thành đẳng cấp thứ dân gồm sĩ nông công thương, nông dân là tầng lớp đông đảo nhất, đã phân hóa thành địa chủ bình dân, nông dân tự canh và tá điền (người nông dân bị mất đất phải canh tác trên ruộng đất thuê nộp tô cho địa chủ). Địa chủ bình dân và quan lại hợp thành giai cấp phong kiến. Dân cư thời kỳ Hậu Lê đã khá đông và phân bổ rộng rãi theo thế đất để trồng cấy. Nên kinh tế chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, thủ công nghiệp gia đình và buôn bán nhỏ trong phạm vi làng xã qua mạng lưới các chợ phiên.
Về Thương mại: các chợ làng quê đầu tiên trên đất Bình Lục căn bản được hình thành dưới thời Lý Trần và được chính quyền nhà Lê tổ chức sắp xếp lại theo trật tự và quy định chu kỳ họp phiên, dần được nhân rộng theo độ phát triển của dân cư để trở thành một mạng lưới hoạt động theo nhịp điệu trao đổi kinh tế giữa các làng xã và được duy trì thành nếp cho đến ngày nay.
Các ngành nghề thủ công truyền thống trong phạm vi gia đình như dệt, đan lát, nuôi cá, chăn tằm, kéo tơ, thợ xẻ, mộc nề...vv khá phát triển. Thợ thủ công chủ yếu là một bộ phận nông dân chuyển sang làm các nghề phi nông nghiệp ngay tại làng xã và vẫn chịu các loại sưu dịch như nông dân làng xã.
Thời Lê Mạt, Trịnh Nguyễn xu hướng tư hữu ruộng đất ngày càng phát triển mạnh mẽ. Người nông dân mất đất phải chuyển sang làm tá điền, làm nghề phi nông nghiệp và lưu tán khắp nơi tha phương cầu thực. Nền kinh tế đất nước bị sa sút, người dân Bình Lục cùng với châu thổ Bắc kì chịu muôn vàn tai họa do mất ruộng đất, mất mùa, đói kém, vỡ nợ, ngập lụt, ngành nghề thủ công phá sản, thuế khoá sưu dịch nặng nề.
Về mặt hình thức các tổ chức kinh tế xã hội trên đất Bình Lục thời phong kiến khá đa dạng: đồn điền, điền trang, thái ấp (lộc điền) hộ gia đình và kinh tế nhà chùa. Song về bản chất vẫn là nền kinh tế tiểu nông nặng tính tự cấp tự túc. Lực lượng sản xuất chủ đạo vẫn là hộ nông dân với kĩ thuật và công cụ canh tác lạc hậu, kém năng suất. Sự phân hóa xã hội diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực sở hữu ruộng đất, cơ cấu kinh tế vẫn là sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy sản, tiểu thủ công nghiệp gia đình và buôn bán nhỏ. Trong bối cảnh một xã hội tiểu nông, “ Dĩ nông vi bản” vẫn là cái căn cốt của cư dân Bình Lục cũng như mọi miền quê Đồng bằng Bắc Bộ và cũng là tư tưởng chính sách kinh tế của nhà nước các triều đại trong suốt hàng ngàn năm phong kiến.
III. Thời Pháp thuộc (1958-1945)
Tình hình kinh tế có sự thay đổi gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp. Nền kinh tế vẫn cơ bản là tiểu nông gia tự cấp tự túc. Chế độ cai trị và chính sách kinh tế của thực dân Pháp đã đẩy xã hội đến sự phân hoá giai cấp và mâu thuẫn sâu sắc. Giai cấp địa chủ cường hào ngày càng thắng thế, ruộng tư ngày càng lấn chiếm ruộng đất công làng xã. Phương thức bóc lộc của giới địa chủ mới là phát canh thu tô gắn với cho vay nặng lãi. Gắn việc bóc lột tô tức với buôn bán ở đô thị, nhiều người đã trở thành địa chủ kiêm tư sản như Bá Khoái ở Tử Thanh, Chánh Huân ở Hàn Mạc. Trong địa bàn huyện, đã có nhiều đại lý bán rượu Phông-ten.
Về nông nghiệp năm 1935 diện tích lúa chiêm 32640 mẫu, lúa mùa 9000 mẫu, trồng mầu 2000 mẫu. Do chế độ canh tác lạc hậu nên năng suất rất thấp. Theo địa bạ tỉnh Hà Nam thì năng suất lúa huyện Bình Lục năm 1931 như sau:
- Loại chiêm khê mùa thối là 200kg/mẫu
- Loại chiêm ăn mùa bỏ 650kg/mẫu
- Loại chiêm chắc mùa hỏng 800kg/mẫu
- Loại cấy hai vụ 1000kg/mẫu
Là huyện đồng chiêm trũng nhưng không có hệ thống thuỷ lợi. Sau gặt chiêm đồng ruộng mênh mông một màu nước trắng, hạn hán lũ lụt vỡ đê liên tiếp xảy ra. Cơn bão số bẩy năm 1929 đã làm mất trắng 7000/9000 mẫu lúa. Trước cách mạng tháng tám toàn huyện có 40.775 mẫu ruộng trong đó đất canh tác 32.671 mẫu, bình quân ruộng đất hai sào trên một đầu người. Trong tổng số 32.671 mẫu đất canh tác thì địa chủ chiếm 12.996 mẫu, nhà chung chiếm 3104 từ mẫu, đình chùa 139 mẫu.
Về tiểu thủ công nghiệp ngoài ngành nghề chính là cây lúa nước ở nhiều thôn xã còn có nghề thủ công mà hầu hết có liên quan đến nông nghiệp như nghề dệt vải kéo sợi ở xã Ngọc lũ, An Nội, Bồ Đề; nghề đan lưới, xe gai, đan võng ở An Bài; nghề đan lát tre nứa, lược bí ở xã An Nội; nghề ấp vịt ở xã Đồng Du, Bồ Đồ; nghề bún bánh ở Vụ Bản, An Ninh. Một số nghề có truyền thống nổi tiếng như nghề mộc dựng nhà cửa, đền chùa ở Vũ Bản; nghề nhuộm và nghề làm quạt ở Phú Đa, Bối Cầu; nghề làm hàng mỹ nghệ bằng sừng Trâu ở Đô Hai, Xã An Lão; nghề Y cổ truyền bốc thuốc chữa bệnh đặc biệt là chữa bệnh vô sinh bằng đông y của nhân dân làng Sái xã An Mỹ. Nhóm nghề dịch vụ mới ra đời như kéo xe tay chở khách, bồi bếp, cắt tóc ở thành phố của các làng La Hào, Bồ Xá, (tổng Bồ Xá), Tiên Khoán (tổng Vụ Bản), Tràng Duệ (tổng Văn Mỹ). Tuy nhiên một vài nghề có kỹ xảo nhưng do không được khuyến khích nên việc làm thất thường và mai một.
Về giao thương toàn huyện có 22 chợ. Đó là chợ Trâu (Vị Thượng); chợ Và (Vị Hạ); chợ Họ (Duy Dương); chợ Giải (Phù Tải); chợ Thọ (Thượng Thọ); chợ Quắn (Cổ Viễn, Hưng Công); chợ Lão (xã An Lão); chợ Môi (Mai Động); chợ Dằm (Tiêu Động); chợ Cầu Diễn (Tiêu Viên); chợ Đồn (An Ninh); chợ Bồ Đề (Bỉnh Chung); chợ chủ (Ngọc Lũ); chợ Vọc (Thành Thị); chợ Đôn (Đôn Thư); chợ Nội (Đồng Du); chợ Bùi (Trịnh Xã); chợ Tái (Đinh Xá); chợ Sông (Ngô Khê); chợ Quán Tiên (Tiên Quán), chợ Chấp (Văn Ấp); Chợ Phủ. Tuy là chợ vùng nhưng có sức cuốn hút mạnh mẽ nhiều xã và các huyện xung quanh. Hầu hết những người buôn bán ở các chợ chỉ là các tiểu thương hoặc bán nông bán thương, chưa hoàn toàn thoát ly khỏi xóm làng đồng ruộng. Sản phẩm trao đổi chủ yếu vẫn là thóc gạo, thực phẩm, gia súc, gia cầm hoàn toàn tự sản tự tiêu.
Giai cấp nông dân chiếm 95% dân số nhưng chỉ có 50% diện tích canh tác, nhiều gia đình không có một tấc đất cắm dùi. Ruộng ít, chế độ canh tác lạc hậu, năng suất thấp lại bị bão lụt hạn hán làm mất mùa, không những thế người nông dân còn chịu nhiều thứ thuế phu phen tạp dịch của thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Chính quyền Pháp ban hành hàng loạt pháp lệnh, nghị định nhằm tăng mức thuế cũ và ban hành thuế mới. Chỉ tính riêng thuế thân theo nghị định ngày 18/12/1929 của thống xứ Bắc kì đã nâng thuế đinh từ 2,15 đồng lên 2,5 đồng một suất. Năm 1935 toàn huyện có 112.675 khẩu với 29.022 suất đinh số tiền phải đóng của hai loại thuế là 139.320,26 đồng, trong đó thuế đinh là 73.737,16 đồng; thuế điền là 65.583,10 đồng. Do cuộc sống nghèo khổ bị bần cùng hoá nhiều gia đình phải phiêu bạt rời bỏ quê hương lên Bắc Ninh, Bắc Giang kiếm sống; vào các hầm mỏ đồn điền làm phu, làm thuê cho tư sản với giá rẻ mạt. Có làng 2/3 dân số bỏ đi kiếm ăn nơi khác như ở xã Hưng Công; ở thôn Trung xã Đồng Du; thậm chí có làng như làng Gáo (Xã La Sơn) dân làng bỏ đi hết và tên làng bị xoá sổ.
IV. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)
Đây là thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc theo chỉ thị ngày 25/11/ 1945 của trung ương đảng. Sự phát triển kinh tế trong thời kỳ này là nhằm diệt giặc đói chăm lo ổn định đời sống nhân dân, phục vụ lâu dài cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Từ sau năm 1947 ủy ban kháng chiến đã thực hiện việc bãi bỏ thuế thân, miễn thuế môn bài cho các hộ buôn bán nhỏ, đầy mạnh tăng gia sản xuất và tiết kiệm lương thực chống nấu rượu lậu. Tổ chức đắp đập Môi (xã Mai Động) để bảo vệ sản xuất ở vùng trũng; giảm tô 25% cho tá điền, chia lại công điền cho nhân dân theo nguyên tắc dân chủ: cả nam nữ từ 18 tuổi trở lên; có gần có xa, có xấu có tốt.
Từ năm 1948 dựa vào phong trào thi đua ái quốc do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động, nhân dân Bình Lục ra sức cấy hết diện tích ven đường giao thông, đấu tranh chống địch rào đồn bốt bỏ ruộng hoang hoá, quyết liệt chống càn để bảo vệ sản xuất, tích cực khai hoang phục hóa, chống úng để cấy gần hết diện tích chiêm mùa, huy động sức người cày bừa thay trâu để đảm bảo thời vụ; thực hiện kinh tế tự cấp tự túc đảm bảo ăn mặc cho nhân dân và đóng góp cho kháng chiến. Các nghề thủ công vẫn duy trì như làm nón ở An Đổ, đan rổ rá ở An Nội, dệt vải ở An Lão, Ngọc Vũ. Một số nghề sút kém cho địch càn quét, cản trở giao thông. Về thương mại chính quyền có chủ trương cấm vận chuyển nguyên liệu công nghiệp và lương thực từ vùng tự do vào vùng tạm chiếm, nhưng hàng hoá ở các chợ vẫn tràn ngập, do nhu cầu hàng hóa cho đời sống và cho kháng chiến như thuốc tây, vải may mặc vẫn cần thiết. Từ khi địch mở rộng vùng chiếm đóng ở Bình Lục thì giá cả lương thực thực phẩm tăng nhanh. Chỉ tính đến tháng 12/1950 tức là sáu tháng bị giặc chiếm đóng, gạo tẻ tăng từ 4000 đồng lên 18000 đồng một tạ; thịt từ 200 đồng lên 1200 đồng 1kg; vải từ 125 đồng lên 500 đồng 10 vuông.
V. Thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế, cải tạo xã hộ chủ nghĩa các thành phần kinh tế (1954-1965)
1. Khôi phục sản xuất và phát triển kinh tế
Hòa bình lập lại nhân dân Bình Lục trở thành người chủ của đất nước độc lập tự do, nhưng cuộc chiến tranh đã để lại hậu quả nặng nề: ruộng đất hoang hóa lên tới hàng ngàn héc-ta, nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp bị thiếu trầm trọng, hệ thống thủy nông đường xá bị hư hại nặng; các ngành kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp vốn lạc hậu nay càng trì trệ không đám ứng được nhu cầu lương thực thực phẩm cho nhân dân.
Ngay từ đầu vụ mùa 1954, nhân dân đã phá bỏ toàn bộ đồn bốt, bong ke, tháp canh của địch, đồng thời tích cực khai hoang mở rộng diện tích gieo cấy. Tháng 5/1955, một trận mưa lớn kéo dài hàng tuần gây ngập úng toàn bộ diện tích của 8 xã. Hàng ngàn người trong huyện trong đó lực lượng thanh niên là nòng cốt đã đắp bờ vùng chống úng cứu lúa. Ủy ban hành chính huyện đã lấy khẩu hiệu “nghiêng đồng đổ nước ra sông” là khẩu hiệu của đợt đấu thủy này, sau đó được nhân rộng ra toàn tỉnh Hà Nam và trở thành khẩu hiệu bất hủ của phong trào chống lụt toàn miền Bắc. Tháng 1/1958 huyện ủy, ủy ban hành chính huyện Bình Lục chỉ đạo đắp đập Cát tường( xã An mỹ) chống hạn cho được Hồ Chủ tịch đến thăm và trao cờ luân lưu “chống hạn khá nhất” cho Đảng bộ và nhân dân huyện Bình Lục.
Cùng với tăng cường công tác thuỷ lợi huyện còn tổ chức cử các cán bộ đi học và thực hiện các bước cải tiến kĩ thuật. Nhờ vậy mặc dù bị thiên tai năng suất lúa chiêm xuân năm 1956 vẫn tăng 10% so với 1955. Tuy nhiên, phong trào chỉ rầm rộ thời gian đầu, đến nửa cuối 1956 thì lắng xuống. Trong chăn nuôi việc hướng dẫn kĩ thuật chưa sâu rộng, công tác bảo vệ đàn gia súc, gia cầm chưa được chú ý đúng mức. Các xã vùng chiêm trũng cứ sau mỗi vụ số trâu bò cày kéo bị chết lại tăng lên. Rét, nắng nóng kéo dài, ngập úng đã làm bùng phát các dịch bệnh gia súc gia cầm, nhưng chưa có biện pháp phòng ngừa hiệu quả.
Giai đoạn 1955-1960 là thời kỳ cải tạo các thành phần kinh tế, nhưng người nông dân được chia ruộng đất nên hăng hái mua thêm trâu bò, nông cụ tăng gia sản xuất. Đàn trâu năm 1957 là 1205 con, thì năm 1959 là 2975 con. Bình quân lương thực đầu người năm 1956 là 241 kg, năm 1958 là 348 kg. Đàn lợn năm 1960 đạt 12941 con. Năm 1958 đã huy động 2767 tấn thóc cho nhà nước.
Giai đoạn 1961-1965, phong trào hợp tác hóa đã có bản hoàn thành, nhờ phát động phong trào thủy lợi và cải tiến quản lý trong hợp tác xã nông nghiệp, các chỉ tiêu sản xuất năm sau cao hơn năm trước. Đi đôi với thâm canh tăng năng suất lúa, diện tích và sản lượng cây màu lương thực, cây công nghiệp đều tăng. Đặc biết nghề cá phát triển nhanh. Năm 1962, diện tích nuôi thả cá đã đạt 8207 mẫu cá đồng và 933 mẫu cá ao. Năm 1964, tổng sản lượng lương thực đạt 30.000 tấn, bình quân lương thực đầu người là 327 kg.
2. Cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế
2.1. Cải cách ruộng đất
Từ tháng 2/1955 Bình Lục đón tiếp và tạo điều kiện để các đội giảm tô hoàn thành chính sách giảm tô giảm tức. Đầu năm 1956 cơ bản hoàn thành cải cách ruộng đất. Tổng số ruộng được chia là 522,9 mẫu; tổng trâu bò bị tịch thu là hơn 270 con, số hộ bị tịch thu nhà cửa là 558 hộ.
Tuy nhiên do mắc phải một số sai lầm, xác định thành phần giai cấp không đúng nên đã quy sai thành phần giai cấp nhiều hộ. Nguyên nhân do cải cách ruộng đất kết hợp với chỉnh đốn tổ chức được thực hiện máy móc, giáo điều nên tổ chức đảng, chính quyền bị cô lập. Đội cải cách ruộng đất toàn quyền quyết định mọi công việc ở xã dẫn đến tình trạng đấu tố tràn lan. Với phương châm sai đâu sửa đấy, có sai có sửa. Sau ba bước sửa sai, hàng trăm người bị bắt trong giảm tô, cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức được trả tự do. Kết quả sửa sai đã củng cố niềm tin của cán bộ đảng viên và nhân dân, từng bước lấy lại sự ổn định trong đời sống nông thôn.
2.2. Xây dựng tổ đổi công
Ngày 1 tháng 4 năm 1955 tỉnh ủy Hà Nam có chỉ thị: đẩy mạnh xây dựng tổ đổi công làm cơ sở để phát triển kinh tế văn hóa xã hội. Huyện đã mở lớp huấn luyện cho hàng trăm cán bộ xã và tổ trưởng tổ đổi công, cử cán bộ xuống xã phối hợp với nông hội và đoàn thanh niên chịu trách nhiệm xây dựng. Sáu tháng đầu năm 1956 toàn huyện đã xây dựng được 1181 tổ đổi công với 5213 hộ, 19.280 nhân khẩu. Tuy nhiên phong trảo chỉ rầm rộ thời gian đầu, về sau chỉ còn một số ít tổ đổi công hoạt động nhưng mang nặng tính hình thức. Tháng 2/1958 huyện tổ chức hội nghị tổng kết, tập trung vào công tác huấn luyện cán, đẩy mạnh tuyên truyền và vận động nhân dân. Đến cuối năm 1960, trên 90% số hộ tham gia tổ đổi công trong đó 40% – 50% tổ hoạt động thường xuyên.
2.3. Xây dựng hợp tác xã nông nghiệp
Thực hiện chủ trương của tỉnh ủy Hà Nam về thí điểm xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, huyện đã chỉ đạo chi bộ xã Liên An tổ chức học tập chính sách điều lệ xây dựng hợp tác xã, thực hiện nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi, quản lý dân chủ. Sau hai tháng vận động, hợp tác xã nông nghiệp Tiền phong thuộc thôn Ô mễ (xã Liên An) ra đời, thu hút 20 hộ xã viên tham gia. Vụ mùa 1958, năng suất lúa của hợp tác xã đã đạt 2,7 tân/ha trong khi trong khi nông dân cá thể chỉ đạt 2,4 tấn/ha. Đây là một trong những hợp tác xã đầu tiên của miền bắc được Phó thủ tướng Phạm Hùng đến thăm.
Trong hai năm 1959 - 1960 huyện phát động 6 đợt vận động nông dân vào hợp tác xã. Với khẩu hiệu Bình Lục quyết phấn đấu để căn bản hoàn thành hợp tác hóa, đến cuối năm 1960 toàn huyện có 263 hợp tác xã nông nghiệp với 18195 hộ chiếm tỷ lệ 87,6%,
Sau ba năm đầy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp, quan hệ sản xuất ở nông thôn thay đổi nhanh chóng. Kinh tế hợp tác từ chỗ chỉ chiếm 1,67% năm 1958, tăng lên 39,4% năm 1960, sở hữu 25.276 mẫu ruộng, 24,6 mẫu cây lâu năm, 254,8 mẫu đầm hồ ao, công hữu 2366 con trâu, 380 con bò. Năm 1962, bình quân một hợp tác xã 135 hộ. Số hợp tác xã bậc cao là 41 hợp tác xã đạt 28,48%. Từ năm 1964 đưa một loạt hợp tác xã lên quy mô lớn từ 167 hợp tác xã thành 107 hợp tác xã vào cuối năm 1965. Qua bốn đợt cải tiến quản lý kĩ thuật, các hợp tác xã nông nghiệp đã xác định phương hướng sản xuất đi vào hai chân (trồng trọt và chăn nuôi) và ba khâu (thuỷ lợi, phân bón và giống); thực hiện bốn phong trào: làm thuỷ lợi, cải tạo đồng ruộng, làm bèo hoa dâu, cải tiến kĩ thuật các khâu gieo cấy.
Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp đã làm thay đổi căn bản quan hệ sản xuất ở nông thôn. Tuy nhiên phong trào phát triển nhanh nhưng chưa đều và hiệu quả chưa cao, chưa xây dựng được ý thức làm chủ của xã viên, nhiều cơ chế chính sách quản lý còn bất cập. Trong lãnh đạo còn thiếu sót về đường lối giai cấp, nôn nóng, chưa tôn trọng đúng mức nguyên tắc tự nguyện.
2.4. Xây dựng hợp tác xã tín dụng
Năm 1956 có hàng trăm hợp tác xã vay mượn được thành lập với hàng ngàn hộ xã viên tham gia. Tuy nhiên các hợp tác xã ngày càng hoạt động yếu. Cuối năm 1960 toàn huyện có 18375 hộ tham gia hợp tác xã tín dụng đạt 87,7%. Đến tháng ba năm 1962 số xã viên hợp tác xã tín dụng là 35.601 người đạt 80,43%.
2.5. Xây dựng hợp tác xã mua bán
Năm 1958 có 812 xã viên tham gia. Tổng số xã viên tham gia hợp tác xã mua bán ba năm (1958- 1960) là 8348 người. Đến cuối năm 1960 hầu hết các thôn xóm đều có cơ sở hợp tác xã mua bán. Tháng 3 năm 1962 số xã viên hợp tác xã mua bán là 25.925 người đạt 59%.
2.6. Đối với hộ buôn bán nhỏ
Năm 1959 toàn huyện có 1886 hộ buôn bán nhỏ. Qua một năm cải tạo đã đưa 243 hộ trở về sản xuất nông nghiệp và cấp đăng ký kinh doanh cho 1643 người chiếm 16% tổng số hộ tiểu thương, đối với ngành chủ yếu như vải, bách hoá đạt 58%. Cuối năm 1960 đã cải tạo, vận động các hộ tiểu thương tham gia các hợp tác xã mua chung bán chung, , mua chung bán riêng, mua riêng bán riêng.
2.7. Đối với tiểu thủ công nghiệp
Năm 1959 toàn huyện có 2138 người làm nghề thợ rèn, may mặc, làm nón, dệt vải, dệt gai, làm ren. Tháng 12 năm 1959 huyện tổ chức 1603 người vào hợp tác xã. Năm 1960 đưa 4007 người vào họp hình thức hợp tác xã trung bình. Sau hai năm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp và tiểu thủ công nghiệp huyện đã căn bản hoàn thành với 80% số hộ tiểu thương và 90% hộ làm nghề thủ công. Năm 1962 các hợp tác xã thủ công đã sản xuất hơn 19.000 công cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp.
Trong ba năm (1958 – 1960) công tác cải tạo các thành phần kinh tế cả thể ở Bình Lục đã hoàn thành. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập dưới hai hình thức sở hữu là nhà nước và tập thể.
Tuy có nhiều cố gắng từng bước khôi phục và phát triển kinh tế xã hội. Song tại đại hội 11 ngày 17/6/1966 đảng bộ huyện Bình Lục cũng đặt ra: tại sao đảng bộ phấn đấu rất gian khổ trong sản xuất nông nghiệp mà đời sống vật chất của quần chúng vẫn chưa được cải thiện nhiều, không rõ nét, bấp bênh không vững chắc, năm lên năm xuống. Thậm chí như năm 1965 khó khăn về thiên tai không nhiều mà thu nhập lại thấp hơn các năm, đời sống của quần chúng có phần lo lắng.
6. Vừa phát triển kinh tế vừa chống Mỹ (1966 – 1975)
Đây là giai đoạn mà vừa phát triển kinh tế vừa chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc và chi viện cho miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn năm 1975. Từ năm 1966 đến năm 1975, chặng đường thực hiện hai nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu, mặc dù trải qua chiến tranh phá hoại và thiên tai, song quan hệ sản xuất được duy trì và củng cố. Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo công tác làm thuỷ lợi cải tạo đồng ruộng, thủy lợi kết hợp với giao thông và trồng cây thả cá, từng bước tạo sự chuyển dịch về cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ và áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, giúp toàn huyện vươn lên tới đỉnh cao trong sản xuất nông nghiệp đạt 5 tấn thóc một ha, đời sống nhân dân được đảm bảo, trật tự trị an được giữ vững. Bình Lục luôn hoàn thành nghĩa vụ lương thực thực phẩm với nhà nước với tinh thần thóc không thiếu một cân quân không thiếu một người.
6.1. Tăng cường cơ sở vật chất, áp dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất
Công tác thuỷ lợi luôn được xác định là biện pháp hàng đầu. Kết hợp thuỷ lợi với giao thông được đặc biệt coi trọng. Các chiến dịch ngắn ngày hàng năm được phát động trên phạm vi toàn huyện tập trung vào hoàn thành các công trình đại, trung, tiểu thủy nông và kiến thiết đồng ruộng. Ngày 10/12/1971, huyện ủy ra nghị quyết về công tác thuỷ lợi. Các đội thuỷ lợi chuyên và bán chuyên được thành lập là lực lượng xung kích trên các công trình lớn. Năm 1972 huyện thành lập trạm thủy nông, các hợp tác xã có đội thủy nông kiến thiết đồng ruộng. Đến năm 1975 hệ thống thủy nông trên địa bàn huyện đã cơ bản hoàn chỉnh, nạn úng ngập, hạn hán đã cơ bản được giải quyết, diện tích tưới chủ động 72,1%. Bên cạnh đó, các hợp tác xã đã huy động nhân lực và vật liệu để kéo các đường dây điện hạ thế, đầu tư các trạm biến áp phục vụ sản xuất và một phần điện thấp sáng cho nhân dân. Năm 1973 hoàn thành xây dựng trạm trung gian Cầu Triều đường dây 35 kV với chiều dài 2,4km vào trạm. Giao thông kết hợp với thủy lợi đã đào đất hàng triệu m³ đất với tổng chiều dài hàng 100km đường liên xóm, liên xã, phục vụ tốt cho sản xuất và giải phóng đôi vai cho người lao động.
Phong trào tiến quân mạnh mẽ vào khoa học kĩ thuật được phát động rộng khắp. Tập trung vào công tác giống và kỹ thuật gieo cấy, thả bèo hoa dâu, trồng điền thanh, chế biến phân bón, cải tạo chất đất và đồng ruộng trong toàn huyện.
6.2. Đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi, cơ cấu mùa vụ, phá thế độc canh cây lúa
Tháng 11/1968 đại hội đảng bộ lần thứ 12 xác định phương hướng xây dựng cải tạo và khai thác đồng chiêm trũng, tập trung sức xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật nhất là thuỷ lợi, đi vào thâm canh toàn diện, từng bước giải quyết vững chắc vấn đề lương thực thực phẩm. Quy hoạch phân vùng sản xuất theo ba vùng:
Vùng một gồm lúa màu cây công nghiệp. Nhiệm vụ sản xuất là lúa, mía, lợn, khoai, rau. Hướng đi là một bước dài phân bổ lại lao động xã hội, trên cơ sở đó tiến hành thâm canh trong nông nghiệp, đồng thời làm nhiệm vụ tiểu thủ công nghiệp trong huyện. Mục tiêu đến năm 1970 phải đạt 5,5 – 6 tấn lương thực, ba con lợn, 1,4 lao động/ha gieo trồng.
Vùng hai: lúa màu chưa ổn định. Nhiệm vụ sản xuất chủ yếu là lúa, rau, lợn, gà và trâu bò sinh sản. Hướng đi là mạnh bước trên con đường thâm canh nông nghiệp tích cực phát triển kinh tế địa phương sớm lên toàn diện. Mục tiêu đến năm 1970 là 5,5 tấn lương thực, 2,5 con lợn, 1,4 lao động/ha gieo trồng.
Vùng ba là vùng chiêm trũng đang cải tạo. Nhiệm vụ sản xuất là lúa, lợn, cá, vịt. Hướng đi là vươn lên mạnh mẽ bằng con đường nông nghiệp ổn định thâm canh đồng thời phát triển toàn diện kinh tế địa phương mục tiêu đến năm 1970 là 4,8 tấn lương thực, hai con lợn, một lao động/ha gieo trồng, 480kg/ha và 1000 con vịt trên một hợp tác xã.
a. Trong sản xuất nông nghiệp: diện tích gieo trồng liên tục tăng do mở rộng diện tích vụ mùa, san lấp thùng đào và tăng vụ. Năm 1966 diện tích cấy mùa tăng 7002 mẫu so với vụ mùa năm 1965; diện tích cây màu tăng từ 1200 mẫu lên 2300 mẫu. Năm 1968 diện tích khoai lang tăng 2,5 lần so với kế hoạch. Năm 1972 cây thực phẩm vượt 60%, cây công nghiệp vượt 25,8 % kế hoạch và tăng 11,8% so với năm 1971. Cây khoai tây mới đưa vào sản xuất đã mở ra khả năng tăng vụ 3 trên đồng đất Bình Lục.
- Các giống lúa mới ngắn ngày năng suất cao bắt đầu được đưa vào sản xuất. Năm 1968 đầu năm rất đậm kéo dài, giữa năm hạn, đầu vụ mùa bão số 4 và số 7 làm ngập 80%diện tích lúa đã cấy. Nhưng do diện tích lúa xuân tăng 23 % kế hoạch nên năng suất lúa bình quân vẫn đạt 17,5 tạ/ha. Năm 1969 giống lúa mới chiếm 14,2 %, năm 1971 chiếm 25 % diện tích gieo cấy. Nhờ vậy năng suất lúa tăng lên đáng kể. Năm 1967 có 11 hợp tác xã đạt 5 tấn/ha. Năm 1974 năng suất lúa đạt 5,7 tấn/ha trên toàn bộ diện tích, là năm đầu tiên Bình Lục vượt qua cửa ải 5 tấn thóc/ha/ toàn bộ diện tích.
Nhờ diện tích và năng suất tăng, sản lượng lúa cũng tăng nhanh. Trồng rau màu lương thực đã bù đắp được phần thiếu hụt sản lượng lúa những năm thời tiết khắc nghiệt góp phần giải quyết đời sống những kỳ giáp hạt.
Về chăn nuôi: phấn đấu đưa chăn nuôi lên cân đối với trồng trọt. Các biện pháp khuyến khích như hướng dẫn sử dụng đất 5%; dành thóc 2% cho chăn nuôi, quy định trọng lượng xuất chuồng, chống lạm sát và tăng cường công tác thủ y được thực hiện. Tổng đàn lợn tăng nhanh, trong đó chú trọng đàn lợn tập thể, đàn lợn nái để điều hòa lợn giống.
Năm 1971 tổng đàn lợn 33.795 còn tăng 9,6% so với năm 1970, là năm cao nhất từ trước tới thời điểm đó, trong đó đàn nái chiếm 12,3%. Quy mô đàn lợn hợp tác xã mở rộng tổng số 6597 con, bình quân 91 con trên một hợp tác xã tăng 6,7% so với năm 1970. Đàn gia cầm, trong đó đàn vịt tăng mạnh, năm 1968 tổng đàn 30.000 con, thu 40 tấn vịt thịt. Năm 1971 riêng đàn vịt đẻ tăng 40,8% so với năm 1970.
Với đặc điểm đồng chiêm trũng, huyện ủy ra nghị quyết đẩy mạnh phong trào thủy sản, thành lập hai trại cá ở Cầu Gừng xã An Nội để cung cấp giống cho toàn huyện. Thuỷ lợi kết hợp với thả cá đem lại kết quả là tăng thêm nguồn thực phẩm đáp ứng yêu cầu của nhà nước và cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện phân công lao động trong nông nghiệp.
Tồn tại phổ biến trong nông nghiệp là năng suất cây trồng chưa ổn định giữa các xã, các hợp tác xã. Diện tích còn lãng phí nhiều, tình trạng lấn chiếm ruộng đất và sử dụng dụng đất sai mục đích vẫn còn, tốc độ phát triển chăn nuôi chậm, nhiều chỉ tiêu, nhiều hợp tác xã chưa đạt kế hoạch hoặc quá thấp. Nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, ngày 16/8/1971 ban thường vụ huyện ủy đã quyết định thành lập ủy ban nông nghiệp huyện. Tháng 10/1971 quyết định lập ban chỉ đạo chăn nuôi, đồng thời cũng quyết định thành lập bộ phận chỉ đạo phân bón cải tạo đất. Điều đó cho thấy huyện ủy rất coi trọng vai trò vị trí số một của nông nghiệp trong sự nghiệp phát triển kinh tế trên địa bàn huyện..
b. Quán triệt đường lối công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, sản xuất tiểu thủ công nghiệp được chú trọng phát triển và mở rộng. Huyện ủy xác định “nhiệm vụ thủ công nghiệp là phục vụ cho nông nghiệp phát triển, phục vụ đời sống nhân dân địa phương và cho xuất khẩu. Phát triển mạnh mẽ các cơ sở và mạng lưới cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp. Phát triển và củng cố các hợp tác xã chuyên nghiệp, phát triển nhiều ngành nghề phụ trong nhân dân”. Do vậy các hợp tác xã dệt, nhuộm, may mặc, cơ khí được cùng cố và mở rộng. Một số nghề mới như đan len, đan mây tre, làm giấy, dệt chiếu, làm nón, dây da, bàn chải được phát triển. Một số nghề dệt vải, dệt thảm, mỹ nghệ xuất khẩu, nước chấm, sản xuất được giữ vững và ổn định các nghề sừng, ren, nhuộm, dệt đã thay đổi được mẫu mã và tăng thêm mặt hàng mới. Xưởng cơ khí Tiến Thành được tăng cường thêm công nhân và trang thiết bị máy móc từ thủ công đến bán cơ khí, đào tạo hàng trăm thợ rèn thợ, nguội, mộc cho các hợp tác xã góp phần hình thành mạng lưới cơ khí từ huyện đến xã. Vì vậy, tổng sản lượng công nghiệp tiểu thủ công nghiệp hàng năm đều tăng.
Các ngành tài chính thương mại có nhiều tiến bộ, khắc phục khó khăn, đáp ứng yêu cầu cấp thiết của sản xuất, chiến đấu và đời sống. Mạng lưới hợp tác xã mua bán ổn định và kinh doanh có lãi, công tác quản lý sử dụng, huy động vốn, thu hồi nợ có kết quả hơn các năm trước.
6.3. Củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Thực hiện nghị quyết số 01 ngày 11/7/1966 và nghị quyết số 30 ngày 26/3/1968 của huyện uỷ về tiếp tục cuộc vận động cải tiến quản lý kĩ thuật vòng hai trong các hợp tác xã nông nghiệp, quan hệ sản xuất mới được củng cố và hoàn thiện thêm một bước. Quy mô hợp tác xã được mở rộng từ 183 hợp tác xã hợp nhất thành 79 hợp tác xã trong đó hầu hết lên bậc cao, số hộ xã viên chiếm 97% tổng số hộ nông dân. Nhiều hợp tác xã đã xác định được phương hướng sản xuất cụ thể và toàn diện hơn. Các đội sản xuất xây dựng được quy trình sản xuất, định mức tiêu chuẩn kĩ thuật, thực hiện khoán nhóm và phân công lao động vào các ngành nghề. Các khoản tham ô tiền khóc, nợ nần dây dưa được thu hồi. Việc chấp hành chính sách ruộng đất 5% được uốn nắn sửa chữa. Phong trào hợp tác hóa được ổn định, tỷ lệ ruộng đất tập thể hóa được nâng lên 96,7% năm 1971. Số hợp tác xã quy mô trên 100 ha chiếm 70%. Việc đưa điều lệ mới vào hợp tác xã đã đạt kết quả một số mặt: quyền dân chủ và quyền làm chủ của xã viên được phát huy; công tác ba khoán (chi phí, công điểm, sản lượng); ba quản (tư liệu sản xuất, tài chính, lao động) trong hợp tác xã đạt kết quả bước đầu; phân công lao động có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng trồng trọt giảm dần, chăn nuôi và ngành nghề tăng lên tương đối. Cơ sở vật chất kĩ thuật trong hợp tác xã được tăng cường nhất là thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, cải tạo đồng chiêm trũng, mở rộng diện tích tăng vụ.
Bên cạnh mặt tích cực, phong trào hợp tác hóa cũng bộc lộ yếu kém. Đó là quy mô hợp tác xã còn nhỏ, một số nơi hộ cá thể còn nhiều. Cơ sở vật chất kĩ thuật nhiều mặt chưa hoàn chỉnh và thiếu đồng bộ, công tác quản lý ruộng đất không chặt, quản lý lao động còn lòng lẻo, quản lý tài vụ còn nhiều sơ hở. Ngày 20/7/1973 huyện ủy ra kế hoạch, mở rộng quy mô hợp tác xã nông nghiệp. Sau hai năm thực hiện từ 78 hợp tác xã hợp nhất thành 45 hợp tác xã vào cuối năm 1974, bình quân mỗi hợp tác xã 419 hộ, 901 lao động và 231 ha canh tác.
Công tác cải tạo tiểu thương, quản lý thị trường có chuyển biến tích cực. Kết quả ba năm 1968 – 1970 đã đưa 1271 người sang trực tiếp sản xuất, trong đó 1022 người sản xuất nông nghiệp, 196 người sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 53 người vào các ngành lao động khác. Kết quả đó đã giảm bớt được số người buôn bán tự do, tăng thêm lực lượng lao động sản xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội, góp phần ổn định giá cả thị trường.
7. Thời kỳ hợp tác xã nông nghiệp mở rộng quy mô, tập trung chuyên môn hóa; khởi đầu đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp (1975 – 1985)
Đất nước thống nhất, tỉnh Nam Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đại hội đảng bộ Hà Nam Ninh tháng 1/1976 đề ra nhiệm vụ: xây dựng kinh tế trong đó yêu cầu quan trọng và cấp bách là đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, trọng tâm là giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm. Hoàn thiện quan hệ sản xuất theo hướng tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý từ cơ sở.
Tháng 10/1976 đại hội đảng bộ Bình Lục lần thứ 17 xác định: tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, tập trung sức xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức sản xuất, cải tiến chế độ quản lý, tổ chức bộ máy quản lý với trình độ cao hơn. Tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa nhằm đẩy nhanh tốc độ và quy mô phát triển kinh tế, trước hết là nông nghiệp, trọng tâm là lương thực thực phẩm, lấy cây lúa con lợn là chính, theo hướng chuyên canh, thâm canh, tăng năng suất, tăng vụ, tăng diện tích, đưa nhanh vụ đông thành vụ sản xuất chính, đưa nhanh chăn nuôi thành ngành sản xuất chính.
Đại hội 18 huyện đảng bộ tháng 5/1978 nhấn mạnh thêm: Đưa chăn nuôi lên cân đối với trồng trọt, phát triển mạnh ngành nghề phục vụ sản xuất nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông công nghiệp.
7.1. Thâm canh tăng năng suất lúa, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển nông nghiệp toàn diện
a. Xác định vị trí của cây lúa, đi đôi với vấn đề mở rộng diện tích thì tập trung về thâm canh: đưa mạnh giống lúa có năng suất cao vào cả vụ chiêm, vụ mùa. Chỉ đạo chặt chẽ thời vụ, mật độ cấy, cải tạo đất bằng phân bón, tưới tiêu chủ động phục vụ thâm canh tăng vụ, dần hình thành cơ cấu giống cây trồng hợp lý có năng suất cao, thích hợp với điều kiện tự nhiên. Vụ chiêm năm 1976 diện tích giống mới đạt tỷ lệ 70%, Vụ mùa 63,7%. Công tác giống còn đạt được tiến bộ về cách xử lý giống như gieo mạ nền cứng, gieo mạ trên sân, gieo thẳng vv... nhờ vậy năng suất lúa năm 1976 đạt 5,6 tấn/ha, năm 1977 tuy gặp nhiều khó khăn nhưng năng suất lúa vẫn đạt 43,9 tạ/ha, sáu hợp tác xã đạt năng suất từ 51 đến 73 tạ/ha.
b. Đưa nhanh vụ đông thành vụ sản xuất chính
Từ năm 1976, bước đầu đưa giống lúa nông nghiệp 1A ngăn ngày vào cấy mùa sớm để có điều kiện phát triển vụ đông. Vụ đông 1978 có chuyển hướng quan trọng về cơ cấu cây trồng, riêng khoai tây đạt 840 mẫu tăng gần gấp 4 lần năm 1977 và gấp 9 lần năm 1975. Thắng lợi của vụ khoai tây còn tạo ra phong trào quần chúng tích lũy được kinh nghiệm thâm canh và dự trữ được lượng giống tại chỗ cho vụ sau. Vụ đông năm 1980 là năm có diện tích cao nhất đạt 13.214 mẫu bằng 31% trên chân hai lúa.
Như vậy trong sản xuất nông nghiệp đã dành thắng lợi cả ba mặt diện tích, tổng sản lượng lương thực và tỷ lệ màu lương thực. Bình quân diện tích gieo trồng năm 1978, 1979 tăng 5% so với năm 1976, 1977. Tổng sản lượng lương thực bình quân năm 1976 - 1980 so với giai đoạn 1971 – 1975 tăng 16,6%. Trong đó màu lương thực tăng từ 4,9% lên 12,5%. Kết quả sản xuất còn rút ra được một số kinh nghiệm như phương pháp thâm canh cây lúa, trồng khoai tây trên nền đất ướt, thả bèo dâu quanh năm, trồng ngô dầy tạo nguồn thức ăn cho gia súc, đưa khoai lang ba tháng vào chân đất mạ vv... mang lại lợi ích cho nông dân mở ra xu thế làm ăn mới trong nông nghiệp.
c. Chăn nuôi được đẩy mạnh phấn đấu cân đối với trồng trọt
Chăn nuôi lợn gặp khó khăn về thức ăn xong đã có nhiều cố gắng. Năm 1977 là một trong hai huyện khá của tỉnh Hà Nam Ninh. Một số hợp tác xã có quy mô đàn lợn tập thể lên tới 1000 con. Nhiều hợp tác xã phát triển mạnh cả chăn nuôi tập thể và chăn nuôi gia đình, chú trọng cả lợn, gà, vịt, cá, phát động quần chúng nuôi thỏ. Có 7 hợp tác xã đạt mục tiêu 2 con lợn/ha gieo trồng. Với ý thức tạo nguồn thực phẩm ngày càng tăng nên chăn nuôi phát triển đúng hướng và toàn diện. Quy mô và cơ cấu đàn lợn trong lĩnh vực tập thể dần dần được mở rộng. Tỷ lệ đàn lợn nái và giống lai kinh tế có tiến bộ hơn. Đặc biệt một số nơi đã mạnh dạn tổ chức chăn nuôi lợn tăng trọng. Đến ngày 1/7/1979 tổng đàn lợn có 45.623 con trong đó đàn lợn tập thể 9262 con. Tổng đàn lợn bình quân năm 1983 - 1985 là 44.834 con. Đàn trâu bò, gia cầm nhất là đàn vịt đạt kết quả khá, đàn thỏ phát triển ở nhiều nơi. Phong trào thả cá có tiến bộ, việc triển khai nuôi thả ao cá Bác Hồ được chỉ đạo chặt chẽ và có hiệu quả.
7.2. Phát triển tiểu thủ công nghiệp, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế nông công nghiệp
Đi đôi với phát triển nông nghiệp là đầy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp. Huyện đã có chuyển biến rõ về nhận thức và hành động, đi vào cùng cố tổ chức phát triển lực lượng, mở rộng quy mô sản xuất và khai thác tạo nguồn nguyên liệu tại chỗ. Chú trọng cùng cố tổ chức, đào tạo thợ mới, chuyển một số lao động sang các cơ sở sản xuất chuyên nghiệp trong hợp tác xã thủ công đã có như dệt, may mặc, thêu ren, thảm mành, sừng mỹ nghệ.
+ Lĩnh vực trong sản xuất tiểu thủ công nghiệp khá hơn lĩnh vực quốc doanh, lực lượng sản xuất kiêm trong nông nghiệp phát triển mạnh hơn lực lượng chuyên nghiệp. Quy mô sản xuất và đào tạo đội ngũ lao động có bước tiến bộ.
Tổ chức các mặt hàng xuất khẩu được quan tâm chú ý. Một số nơi tận dụng đất đai trồng hương nhu, bạc hà, chưng cất tinh dầu tạo ra mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Nhờ vậy đã tạo ra sự biến đổi về cơ cấu kinh tế nông công nghiệp trong huyện. Cơ cấu giá trị sản lượng năm 1975: nông nghiệp 85,4% - tiểu thủ công nghiệp 14,6%. Bình quân năm năm 1975 – 1980 nông nghiệp 83,7% – tiểu thủ công nghiệp 16,9%.
7.3. Công tác tài chính ngân hàng thương nghiệp
Có cố gắng trong việc phục vụ sản xuất và đời sống, thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán được cùng cố thêm một bước. Khối lượng hàng hóa và doanh số kinh doanh tăng bình quân từ 135 triệu lên 163 triệu đồng/năm. Công tác quản lý thị trường từng bước chặt chẽ và quản lý tận gốc một số mặt hàng chủ yếu. Tài chính tiền tệ tín dụng có nhiều cố gắng, tăng nguồn thu, mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh phát huy hiệu quả nhằm xây dựng huyện thành một cấp ngân sách, giảm dần sự mất cân đối trong ngân sách huyện. Từ năm 1983 – 1985 bình quân mỗi năm huy động cho nhà nước 11587 tấn thóc tăng 26% so với giai đoạn 1976 – 1980, thực phẩm bình quân 589 tấn/năm; mía 4667 tấn/năm.
7.4. Quy mô hợp tác xã nông nghiệp được mở rộng theo hướng tập trung, chuyên môn hóa
Từ cuộc vận động tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý trong nông nghiệp huyện Bình Lục đã khẳng định những vấn đề cơ bản về nội dung tổ chức lại sản xuất, cải tiến công tác quản lý và củng cố hợp tác xã nông nghiệp, sau khi làm điểm ở khu B, đã nhanh chóng triển khai ra toàn huyện. Năm 1976 tổ chức hợp nhất từ 79 hợp tác xã thành 20 hợp tác xã toàn xã, với quy mô bình quân 530 ha canh tác, 2068 lao động và 5185 nhân khẩu. Quy mô các đội sản xuất cũng được tổ chức lại từ 523 đội thành 320 đội, Trong đó có 220 đội trồng lúa. Bình quân mỗi đội 45,5 ha, 150 lao động, 471 nhân khẩu. Việc chuyên môn hóa trong các hợp tác xã đã được thực hiện. Đã thành lập các đội chuyên làm đất, chế biến phân bón, xử lý giống, bảo vệ quản lý thủy nông, đội làm thức ăn gia súc vv... Toàn huyện có 100 đội chuyên. Bố trí lại lao động giữa các ngành trồng trọt và chăn nuôi, giữa sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Số lao động trồng trọt giảm 17% còn 73%; số lao động chăn nuôi tăng ít, lao động ở các ngành nghề tăng 69%. Trong tổ chức lại sản xuất, đã xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh lớn và từng cơ sở của toàn huyện trước mắt và lâu dài. Huyện đã chỉ đạo đo đạc lại, điều tra nông hoá \thổ nhưỡng xếp khoảnh định hạng ở khu B và phân bổ lại ruộng đất cho các đội theo hướng cùng giống, liền đồng, khác đội. Trên cơ sở đó mà có hướng cải tạo đất, bổ trí cơ cấu cây trồng, lập quy hoạch phân vùng sản xuất của từng hợp tác xã và trong toàn huyện. Trên địa bàn huyện bước đầu đã điều hành thống nhất lịch gieo trồng theo đúng thời vụ.
Bộ máy quản lý hợp tác xã được kiện toàn, hình thành các tiểu ban chuyên môn theo dõi tình hình, điều hành, đảm bảo tính tập trung thống nhất. Thực hiện hạch toán 41 tài khoản trong hợp tác xã. Đến năm 1980 đại bộ phận các hợp tác xã đã triển khai quản lý theo 10 chế độ và áp dụng chế độ hạch toán kế toán 43 tài khoản, khắc phục một bước quản lý hành chính bao cấp, chuyển sang quản lý kinh doanh có kế hoạch, có hạch toán. Hiện tượng tham ô, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa được hạn chế. Quyền làm chủ tập thể của quần chúng được đảm bảo và tôn trọng.
7.5. Tăng cường cơ sở vật chất
Với tinh thần lực tự cường, tranh thủ sự hỗ trợ của nhà nước, dựa vào nguồn vốn và điều kiện của địa phương để xây dựng các công trình phục vụ sản xuất nông nghiệp. Các cơ sở sân phơi, nhà kho, chuồng trại, nhà chế biến được xây dựng thêm, quy mô được mở rộng theo hướng tập trung hợp lý. Hệ thống giao thông, thuỷ lợi tiếp tục được cải tạo và hoàn chỉnh. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất năm 1979 là trên 2 triệu đồng thì trong nông nghiệp chiếm 3/4 số vốn đã đầu tư. Huyện đã hoàn chỉnh và triển khai công trình điện của xã An Nội, Hưng Công, Tiêu Động, cải tạo mạng lưới điện của cơ sở Vụ Bản, An Đổ, trang bị thêm cho các trạm bơm điện của các xã. Từ đó mở rộng diện tích tưới tiêu tự chảy, tạo điều kiện cho thâm canh tăng vụ và cơ giới hóa khâu làm đất đến 30%, một số hợp tác xã đã cơ giới hóa khâu làm đất lên 50%. Tổng giá trị tài sản cố định của hợp tác xã nông nghiệp đến năm 1979 tăng 47,7% so với năm 1975. Đầu máy kéo tiêu chuẩn tăng 28,5%, diện tích cơ giới hóa làm đất đạt 31,5%; năng lực tưới tự chảy tăng 28%, tiêu tự chảy 115,4%. Vốn tự có của hợp tác xã năm 1979 tăng 76,8% so với năm 1975. Mức lương thực sản xuất bình quân đầu người 351 kg tăng 12,7% sovới bình quân 1971 – 1975. Mức ăn bình quân 13,6kg/người/tháng; thu nhập thực tế của xã viên hợp tác xã nông nghiệp bình quân 1976 - 1979 tăng 6,8% hàng năm. Đến năm 1979 bước đầu huyện đã xây dựng được quy hoạch tổng thể và quy hoạch ngành, cụm kinh tế kỹ thuật. Đã hình thành liên doanh như liên doanh sản xuất vật liệu xây dựng của cụm Quế Sơn. Đến năm 1985 huyện bổ sung quy hoạch tổng thể, quy hoạch huyện lị, quy hoạch khu trung tâm 13 xã. Điện lực tăng cả số lượng máy biến áp, đường dây và động cơ. Giao thông vận tải được nâng cao năng lực, mua sắm thêm phương tiện đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và đời sống. Hoạt động bưu điện đảm bảo yêu cầu thông tin chỉ đạo thông suốt, đặc biệt là trong chỉ huy chống lụt bão năm 1985.
7.6. Khởi đâu đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp (1981-1985)
Trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ngày 13/1/1981 ban bí thư trung ương đảng ra chỉ thị 100/CT-TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp, huyện đảng bộ có nghị quyết 44 vận dụng khoán sản phẩm vào điều kiện cụ thể của địa phương. Chủ trương này đã giải quyết những băn khoăn của cán bộ cho rằng làm khoán là phá vỡ quan hệ sản xuất, là một bước thụt lùi; ở những hợp tác xã tiên tiến còn do dự, trái lại ở những hợp tác xã vốn có khó khăn thì coi đây là cách tháo gỡ thế bí.
Vụ chiêm xuân năm 1981, Huyện chỉ đạo làm thử ở một số hợp tác xã, tiến dần giao khoán từ 10% đến 15% đến 50% diện tích và cuối vụ thì giao hết diện tích cây lúa cho người lao động. Riêng hai hợp tác xã Mỹ Thọ, Mỹ Thắng vẫn thực hiện ba khoán cho đội sản xuất. Từ vụ mùa năm 1981 toàn huyện có 48/50 hợp tác xã thực hiện khoán theo chỉ thị 100. Thời gian này các hợp tác xã điều chỉnh lại quy mô từ 29 hợp tác xã toàn xã chia thành 50 hợp tác xã, trong đó có 11 hợp tác xã toàn xã.
Qua ba vụ khoán sản phẩm cây lúa (1981 - 1983) đã thấy rõ từ lâu do nhược điểm của công tác tổ chức quản lý, tình trạng đi muộn về sớm, chất lượng và năng suất lao động không cao, giá trị ngày công thấp, có nơi rất thấp, thu nhập từ hợp tác xã đối với xã viên trên dưới 40% sản phẩm lao động. Khi khoán sản phẩm, mọi người tự giác đầu tư thêm phân bón, công lao động để vượt sản lượng khoán. Ở 28 hợp tác xã với 19.768 hộ nhận khoán có 12.284 hộ vượt khoán bằng 62%. Tuy vậy đã xuất hiện tình trạng định sản lượng khoán thấp, việc cung ứng vật tư chậm, hợp tác xã không điều hành được sức kéo, giống, tình trạng khê đọng còn nhiều.
Nhờ sự chỉ đạo trong công tác khoán sản phẩm, kết hợp liên tục phát động phong trào thi đua thâm canh nên các năm kết quả sản xuất đều đạt khá. Sản lượng lương thực và sản lượng các cây nông nghiệp đều tăng. Phần lớn nhân dân đã ổn định cuộc sống, một bộ phận đã có những cải thiện phát triển khá.
Về chăn nuôi: tổng đàn trâu bò bình quân 1983 – 1985 có 5.795 con, Nhưng đàn trâu tập thể thì giảm sút nghiêm trọng dẫn đến khâu làm đất bằng trâu bò chỉ đạt 55% diện tích. Tình trạng dùng sức người cuốc tay còn phổ biến. Sản xuất công nghiệp tiểu thủ công nghiệp gặp khó khăn về vật tư, nguyên liệu. Huyện đã tập trung vào củng cố tổ chức, mở rộng thị trường, tìm nguồn vốn và phát triển nhiều mặt hàng. Các đơn vị đã tích cực cải tiến mặt hàng, mạnh dạn đầu tư trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, chủ động khai thác liên doanh liên kết; thủ công nghiệp phát triển mạnh mẽ hàng thủ công mỹ nghệ. Một số cơ sở yếu kém được khôi phục, số cơ sở khá và giữ vững tăng lên. Xuất khẩu có bước phát triển khá.
Mặc dù có chế quản lý trong nông nghiệp có nhưng cải tiến bước đầu mang tính đột phá trên một số mặt, kích thích lợi ích của người lao động tác động đến sản xuất, nhưng cơ bản vẫn nằm trong cơ chế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp, do vậy chưa tạo ra năng suất mới cao hơn. Đời sống kinh tế xã hội trên địa bàn huyện nhiều mặt còn khó khăn.
8. Thời kỳ đổi mới 1985 – 2005
Cùng đồng hành với nền kinh tế đất nước trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn là đất nước trải qua các cuộc chiến tranh, cơ sở vật chất hạ tầng lạc hậu và thiếu thốn, chúng ta đã chập chững vừa đi vừa dò đường để xây dựng nền kinh tế trong một cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp. Trong hoàn cảnh chiến tranh và bước đầu phát triển kinh tế chưa có hình mẫu nào thì đó là một cơ chế kinh tế phù hợp tác dụng phục vụ cho cuộc chiến tranh, đảm bảo đời sống nhân dân và góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu cho công cuộc xây dựng Chủ nghía xã hội. tuy nhiên khi chiến tranh đã chấm dứt, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp không còn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, nó kéo dài làm cho nền kinh tế trì trệ.
Một số tổ chức đơn vị kinh tế, thậm chí một số địa phương đã tự mình làm thí điểm về đổi mới kinh tế, đổi mới cơ chế kinh tế. Lúc này được cho là hành động phá dào, làm chui để tìm ra một cách thức, một hướng đi mới trong tổ chức quản lý kinh tế hay còn gọi là cơ chế kinh tế phù hợp để giải phóng lực lượng sản xuất. Nguyên tắc của cơ chế này là đề cao năng lực quản lý của người quản lý và tự chủ thực sự của người lao động trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và chế độ phân phối, đặc biệt là chế độ phân phối lợi ích). Trong thực tế các thí nghiệm đã thành công, mở ra một tương lai mới về đổi mới cơ chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế hành chính quan liêu bao cấp dần bị xóa bỏ bằng các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.
8.1. Tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế trong nông nghiệp
Ngày 13/1/1981, Ban bí thư trung ương Đảng ra chỉ thị số 100CTTW với nội dung: “Cải tiến công tác khoán mở rộng, khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp. thời gian này huyện tổ chức HTX toàn xã gồm 29 HTX quy mô xã. Để thực hiện cơ chế khoán 100. Phù hợp với trình độ quản lý từ vụ mùa năm 1981 đã điều chỉnh tổ chức quy mô hợp tác xã từ 29 HTX toàn xã lên 50 HTX trong đó còn 11 HTX toàn xã. Thực hiện khoán 100 đã khắc phục được tình trạng lao động đi muộn về sớm, không quan tâm đến kết quả công việc, lãng phí thời gian mà làm cho mọi người lao động tự giác hơn và chịu trách nhiệm tời kết quả sản xuất cuối cùng cả về số lượng và chất lượng, được mọi xã viên và gia đình quan tâm. Ban quản trị, đội trưởng đội sản xuất là người quản lý, giao việc, kiểm tra nghiệm thu công việc và sản phẩm. Do đó nâng cao hơn năng xuất lao động và thu nhập của người lao động.
Năm 1987, tổng kết 6 năm thực hiện chỉ thị 100 khẳng định rằng: Chỉ thị 100 của Ban bí thư trung ương Đảng về cơ chế khoán sản phẩm đã phát huy tác dụng, tạo ra động lực mới trong nông nghiệp, bước đầu làm thay đổi cách thức quản lý kinh tế nông nghiệp của HTX nông nghiệp, song cũng bộc lộ những hạn chế là việc giao khoán của hợp tác xã chưa phù hợp với quyền lợi của xã viên, chưa tương xứng với thành quả mà lao động bỏ ra. Nhiều hợp tác xã buông lỏng chỉ đạo và điều hành sản xuất, mà khoán trắng cho lao động, thiếu xây dựng kế hoạch, thiếu kiểm tra giám sát đơn độc. quan hệ sản xuất, đặc biệt là mối quan hệ phân phối sản phẩm nảy sinh mâu thuẫn dẫn đến tình trạng khô đọng sản xuất, lợi dụng, tham ô… Làm cho quần chúng thiếu quan tâm, phấn khởi hăng hái sản xuất. Để khắc phục những hạn chế của Chỉ thị 100CT/TW của Ban bí thư trung ương Đảng ngày 5/4/1988. Bộ Chính trị TW Đảng đã ra nghị quyết số 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, theo đó đề ra: cơ chế khoán mới, xác định HTX nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ tự quản, hộ xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã. Nghị quyết nêu rõ: nhiệm vụ trước mắt đối với nông nghiệp nước ta là sắp xếp lại tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa, củng cố mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Thực hiện chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh trong nông nghiệp, tiếp tục hoàn chỉnh cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm hệ và hộ xã viên. Đảm bảo cho xã viên có thu nhập từ 40% sản lượng khoán trở lên.
Thực hiện Nghị quyết số 10 Bộ Chính trị. Ngày 6/9/1988 Tỉnh ủy Hà Nam Ninh ra QĐ số 18 NG/TU về đổi mới kinh tế của tỉnh; ngày 10/8/1987 Huyện ủy Bình Lục đã ra Nghị quyết số 12 hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm (là huyện đã tổ chức đi trước một bước). Ban Thường vụ Huyện ủy đã cho tổ chức khảo sát, thực hiện ở 5 HTX, thấy có hiệu quả tốt, ngày 11/3/1988, Huyện ủy ra NQ số 02 về tiếp tục cải tiến tổ chức sản xuất và công tác quản lý trong hợp tác xã.
Tháng 6/1988, thực hiện Nghị quyết số 02 của Huyện ủy, có 45/48 HTX mở Đại hội thong qua đề án khoán và kiện toàn bộ máy quản lý. Nghị quyết số 02 đã thể hiện một bước chuyển biến mới về dân chủ công khai trong việc lựa chọn bộ máy quản lý và quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Đội ngũ cán bộ quản lý giảm đi 55,9% so với cũ. Số đội sản xuất giảm đi 461 còn 319. Trình độ cán bộ được lựa chọn nâng lên, việc bố trí, kiêm nghiệm, lồng ghép giữa cán bộ HTX và cán bộ xã được tiến hành tổ chức ở một số xã. Kinh tế gia đình bắt đầu thực sự phát huy ưu thế. Ruộng đất từ đất đai canh tác, ao hồ, mặt nước thả cá… đều được giao khoán và khoán đấu thầu, đấu thầu tới từng hộ xã viên. Nhờ đó mà ruộng đất, tư liệu sản xuất đều được giao khoán cho lao động và gia đình xã viên.
Các HTX đều giành từ 40-55% đất giao cho nhu cầu cơ bản, mức BQ 1 khẩu từ 1-1,5 sào, dành 40-50% giao bình quân cho lao động. Sau khi đã phận loại hộ và loại trừ lao động của hộ không có khả năng sản xuất hoặc đọng nhiều sản phẩm. Hình thức khoán đấu được thực hiện điển hình ở các xã La Sơn, Mỹ Thọ, bình Lý, cho những diện tích xa, xấu không có người nhận khoán.
Trâu bò và các công cụ sản xuất được hóa giá 100% cho xã viên tự quản để thu hồi vốn về cho HTX. Xã viên được tự chủ về quản lý dử dụng trâu bò và công cụ sản xuất, còn HTX tập trung quản lý điều hành các dịch vụ sản xuất như: giống, tưới tiêu, điện, bảo vệ thực vật.
Sau 3 năm thực hiện NQ 10 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, phong trào hợp tác hóa có bước chuyển biến mới, song cũng nảy sinh một số vấn đề cản trở quá trình chuyển nền sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa, các hoạt động sản xuất và quản lý chưa thích ứng với thị trường. Ban Thường vụ Tỉnh ủy chủ trương thí điểm đổi mới tổ chức quản lý HTX nông nghiệp, chọn HTX Khả Phong(Kim Bảng) làm điểm với 5 nội dung lớn: một là giao ruộng đất cho hộ sản xuất; hai là tổ chức hoạt động dịch vụ; ba là đổi mới phương thức quản lý; bốn là sử dụng vốn quỹ; năm là tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị đối với HTX. Trên cơ sở thí điểm đó, ngày 15/2/1992, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh ra quyết định số 115QĐUB V/v ban hành những nội dung đổi mới tổ chức HTX nông nghiệp trong tỉnh. Xác định HTX là tổ chức kinh tế tập thể ở nông thôn, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ được nhà nước cấp giấy chứng nhận giao quyền sử dụng đất đai dài hạn thong qua HTX nông nghiệp. Hộ xã viên và hợp tác xã là quan hệ hợp tác bình đẳng, hợp đồng. Đối tượng giao đất ổn định lâu dài gồm: nhân khẩu nông nghiệp, bộ đội tại ngũ chưa hết thời gian nghĩa vụ, lao động thôi việc về địa phương sản xuất theo Quyết định 176, 111, 315 của HĐBT, nhân khẩu mất sức lao động ngắn hạn, con của công nhân viên chức đã về hưu sinh sống ở nông thôn. Thời gian giao đất đến năm 2000, được quyền thừa kế trong hộ, chuyển đổi, cho thuê và chuyển quyền sử dụng ruộng đất trong thời gian được giao theo quy định. Ruộng đất dự trữ và cho mượn không quá 5 năm. Đất hoang hóa, hồ đầm, thùng đào thùng đấu, đất trồng cây lâu năm cho mượn, cho thuê và thời gian dài hơn so với đất canh tác, hướng chung từ 15-20 năm, đất trồng rừng đến 30 năm, đất thổ cư (đất ở), ao vườn trong khu dân cư giao đất lâu dài. Đất dự trữ, cho mượn giành từ 5-20% quỹ đất. trong quá trình quản lý sử dụng đất đai có tình trạng đất bị chia sẽ manh mún, phân tán ở nhiều nơi, một hộ dân có quá nhiều thừa ruộng canh tác, không thuận tiện cho việc áp dụng cơ giới hóa, thực hiện các biện pháp kinh tế ký thuật, nhất là việc sản xuất hàng hóa tập trung và cơ giới hóa các khâu làm đất, chăm sóc thu hoạch. Ngày 15/4/2000, thường vụ tỉnh ủy Hà Nam có chỉ thị số 15 CT/TV về việc chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp, nhằm khắc phục tình trạng mạnh mún phân tán ruộng đất. Theo đó, chỉ thị yêu cầu tuyên truyền về lợi ích của việc chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp, khuyến khích các hộ nông dân bàn bạc dân chủ, tự nguyện thực hiện dồn điền đổi thửa, mỗi hộ có từ 2-3 thửa, hộ làm trang trại chỉ có 1-2 thửa. Đây là chủ trương đúng đắn được nông dân hưởng ứng, ủng hộ. Song vấn đề ruộng đất là một vấn đề nhạy cảm, tác động trực tiếp đến lợi ích và đời sống người dân, nên trong việc thực hiện cũng gặp không ít khó khăn do: ruộng đất không đều về chất lượng, về không gian, về điều kiện giao thong, thủy lợi và các cơ sở vật chất khác, những so tính thiệt hơn rất nặng nề, tư tưởng ngại khó, ngại va chạm và tính tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trong tư tưởng và hành động. Song với quyết tâm của cán bộ và nhân dân vượt qua những khó khăn đó, đến năm 2001 công tác chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp của toàn huyện đã được hoàn thành 100% thôn xóm đã giao ruộng ngoài thực địa cho các hộ nông dân, bình quân mỗi hộ gần 4 thửa. Trong đó số hộ còn 1 thửa chiếm 4,6%.
Thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 14/9/1998 về chuyển đổi đổi mới tổ chức quản lý Hợp tác xã là xóa bỏ cơ chế quản lý HTX nông nghiệp theo luật HTX. Mục đích chuyển đổi của HTX là xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của HTX. Tăng cường lực lượng sản xuất, phát triển nông nghiệp toàn diện, thúc đẩy kinh tế hộ gia đình. Nguyên tắc của chuyển đổi hợp tác xã là phát huy dân chủ, củng cố đoàn kết hợp tác thống nhất, ổn định chính trị xã hội và đời sống ở khu vực nông nghiệp nông thôn. Tháng 3/1999 có 2 hợp tác xã tiến hành chuyển đổi xong là HTX An Đổ và HTX Cát Lại, Bình Nghĩa. Cuối năm 1999, toàn huyện có 38/39 HTX hoàn thành việc chuyển đổi. Các HTX chuyển đổi ngoài việc tiến hành sản xuất, còn điều hành 3 dịch vụ cơ bản là: giống, điện nước và bảo vệ thực vật, thú y. Lần đầu tiên năm 2001, có 100% HTX nông nghiệp đạt năng suất lúa trên 100 tạ/ha cả năm. Toàn huyện đã đạt năng suất lúa cao nhất là 108 tạ/ha. Trong đó diện tích lúa hàng hóa đạt 17%, sản lượng lương thực cũng là cao nhất: 101.643 tấn tăng 1,5% so với năm 2000.
Trên cơ sở chuyển dịch cơ cấu sản xuất, chuyển đổi ruộng đất, chuyển đổi HTX, các hình thức HTX ít thành viên, HTX dịch vụ, kinh tế trang trại có cơ hội phát triển mạnh.
8.2. Thực hiện quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế quốc doanh
Thời kỳ này là thời kỳ sôi động thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, thực hiện các chương trình kinh tế của đất nước. Trong đó công tác cải tiến quản lý kinh tế trong nông nghiệp đã thúc đẩy nhanh chóng chương trình lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng. Thực hiện Chỉ thị 118 HĐBT, QĐ 217 HĐBT về phát huy quyền tự chủ của các các doanh nghiệp quốc doanh, giải phóng mọi nguồn lực sản xuất của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Các xí nghiệp quốc doanh của huyện như: công ty vật tư, công ty lương thực, công ty thương mại, công ty dược, xí nghiệp ngói, xí nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, trại chăn nuôi đã chủ động chuyển sang cơ chế kinh doang, xóa bỏ chế độ bao cấp, tự hạch toán, tự lo việc làm và đời sống cho cán bộ, công nhân viên và nộp ngân sách cho nhà nước. Các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh được khuyến khích thành lập và phát triển. Sau những năm 2000, cơ chế nền kinh tế được cởi mở thu hút được nhiều đơn vị đối tác đầu tư vào Bình Lục là Xí nghiệp thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ, tôn thép Tân An, thép Việt Đức, thêu ren Đồng Tâm, xí nghiệp sản xuất nước chấm Đức Tín.
Các đơn vị kinh tế nhà nước tiến hành sắp xếp lại và chuyển sang khoán trực tiếp cho các bộ phận, người lao động, tiến hành cổ phần hóa.
8.3. Kết quả của quá trình đổi mới về tổ chức quản lý kinh tế đã mang lại hiệu quả rất đáng kể:
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh từ 7-10% có năm tới 12%.
- Nông nghiệp có sự phát triển vượt bậc. Sản lượng lương thực tăng từ 60.000 ngàn tấn (năm 1986 - 1990) lên 85.300 tấn (năm 2001- 2005)
- Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng 13,9%, 26%, 12% và 20% (năm 2001 - 2005).
- Tốc độ tăng xuất khẩu xung quanh 30%
- Năng suất lúa đạt 10 tấn/ha.
9. Thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa kinh tế, phát triển nông nghiệp, nông thôn (năm 2005 - 2020)
Ta đã trải qua một thời kỳ dài tiến hành đổi mới cơ chế kinh tế, đổi mới tổ chức quản lý kinh tế tạo bước vững chắc cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
- Về nông nghiệp: tập trung tích tụ ruộng đất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển mạnh chăn nuôi, thủy sản…theo hướng sản xuất công nghiệp, mở rộng các trang trại sản xuất đa canh, xây dựng được 200 trang trại, một khu nuôi trồng thủy sản tập trung lớn 93 ha ở xã Mỹ Thọ, 4 trang trại ở 4 xã Tiêu Động, Tràng An, Vũ Bản, An Ninh (Năm 2005 có 104 trang trại). Năm 2010 – 2015 đã hoàn thành việc dồn đổi ruộng đất, số trang trại đa canh, chuyên canh đã tăng lên là 279 trang trại và được tăng cường công tác quản lý, đặc biệt là vấn đề kỹ thuật và tài chính,…Xây dựng và phát triển được mô hình liên kết 4 nhà trong chăn nuôi.
Năm 2015 – 2020, thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU, Nghị quyết số 09-NQ/HY của Huyện ủy về đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn tạo bước đột phá phát triển nông nghiệp nông thôn huyện Bình Lục. Thực hiện chủ trương tích tụ ruộng đất liên kết sản xuất trong trồng trọt, chăn nuôi hoàn thành quy hoạch chi tiết khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với diện tích 121 ha các vùng sản xuất lúa quy mô từ 10ha trở lên cho các vùng sản xuất rau củ quả tại 19/19 xã, thị trấn với tổng số 548 ha. Đồng thời xây dựng 46 mô hình tích tụ ruộng đất với 420 ha liên kết với các nhà doanh nghiệp, trong đó 28 mô hình lúa, 2 mô hình cá, 15 mô hình rau củ quả hình thức sản xuất trong nhà kính, nhà lưới công nghệ cao. Trên cơ sở tích tụ ruộng đất đổi mới tổ chức sản xuất tạo điều kiện đưa tỷ lệ cơ giới hóa tự động vào các khâu sản xuất làm đất, tưới tát, chăm sóc thu hoạch cây trồng, chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh trong chăn nuôi. Tỷ lệ cơ giới hóa trong nông nghiệp được đánh giá khoảng 95% các khâu công việc. Điện khí hóa, tự động hóa, cách mạng số ảnh hưởng rất lớn tới phát triển kinh tế và đời sống góp phần nâng cao năng suất lao động và đời sống nhân dân.
- Cùng với sự phát triển của nông nghiệp là tốc độ phát triển nhanh và cơ cấu hợp lý của ngành công nghiệp, thủ công nghiệp, phù hợp với quá trình thực hiện CNH, HĐH kinh tế. Năm 2005-2010 có trên 55 doanh nghiệp, triển khai được 19 dự án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Xây dựng hạ tầng cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Trung Lương, nhà máy may Hưng Công, giải phóng mặt bằng xây dựng nhà máy chế biến đồ gỗ mỹ nghệ Ngọc Sơn,… Hiện nay, trên địa bàn huyện có 128 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, 04 làng nghề truyền thống, 07 làng nghề tiểu thủ công nghiệp, 15 làng có nghề với tổng số 8.187 cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, giải quyết việc làm cho gần 23.000 lao động. Thời kỳ 2015-2020: Tiến hành rà soát, đề xuất, điều chỉnh đưa ra ngoài quy hoạch cụm công nghiệp xã Tiêu Động 10ha không phù hợp để thu hút đầu tư, cắt giảm cum công nghiệp Đồn Xá, An Mỹ từ 41,7ha xướng còn 10ha, mở rộng và lập quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Trung Lượng dọc theo Quốc lộ 21B với diện tích 57ha và định hướng phát triển thành khu công nghiệp trên 200ha sau này. Đến đây toàn huyện đã có 234 doanh nghiệp đang hoạt động; 7.238 hộ kinh doanh cá thể. Năm 2019 chỉ đạo thành lập hợp tác xã Rượu Vọc truyền thống.
- Ngành thương mại dịch vụ cùng phát triển trên đà công nghiệp hóa hướng vào phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đời sống và xuất khẩu. Tốc độ tăng của ngành thương mại dịch vụ từ 30-40 % trong đó: xuất khẩu hàng năm tăng 40-50%, có năm gần đây tăng gấp 3 lần. Hệ thống thương mại phát triển. Năm 2005 đã nâng cấp đưa vào sử dụng chợ Phố Phủ Thị trấn Bình Mỹ xây dựng Trung tâm thương mại tại trung tâm huyện lỵ và nâng cấp xây dựng 10 chợ nông thôn… Xây dựng chợ đầu mối kinh doanh trung chuyển gia súc gia cầm ở xã Bối Cầu.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 30/6/2016 của Tỉnh ủy Hà Nam về phát triển thương mại dịch vụ trọng tâm là dịch vụ chất lượng cao cấp vững về y tế, đào tạo nguồn nhân lực và du lịch giai đoạn 2016, Huyện chỉ đạo xây dựng phát triển đô thị và được công nhận đô thị loại V là: Đô hai (An Lão), Ba Hàng (Tiêu Động), Chợ Sông (Tràng An), làm cơ sở hình thành các khu thương mại dịch vụ. Mở rộng mạng lưới dịch vụ tín dụng đến các xã, mạng lưới bưu điện viễn thông, dịch vụ Internet gần như 100% số hộ sử dụng điện thoại. 70% số hộ sử dụng đường truyền Internet. Huyện có hệ thống chi nhánh Ngân hàng NN&PTNT, ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng Viettinbank.
- Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, quản lý môi trường. Đây là giai đoạn đỉnh cao đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng tập trung và nhanh chóng có tác động thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nền kinh tế. Ngược lại quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống. Theo đó là việc huy động mọi nguồn lực đầu tư từ khâu quy hoạch, thực hiện đầu tư xây dựng theo hướng kiên cố hóa hiện đại hóa đồng bộ và khẩn trương đưa vào sử dụng phát huy tái đồng bộ và khẩn trương đưa vào sử dụng phát huy tác dụng hiệu quả, đặc biệt là cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng khâu yếu quan trọng nhất là: thủy lợi giao thông, điện, trường học, bệnh xá, khu đô thị và cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp. Đến nay, cơ sở hạ tầng của huyện đã hoàn thiện căn bản. Về giao thông: đã hoàn thiện các dự án lớn như đường DDT475,496,499,9021, Đường quốc lộ 21B, ĐT.495B các trục đường huyện, đường xã, đường thôn xóm được nâng cấp và xây dựng đúng tiêu chuẩn quy hoạch, xây dựng bằng bê tông, nhựa kiên cố thuận lợi. Các cầu lớn được xây dựng thêm là: cầu Châu Giang, cầu Vĩnh Tứ, cầu Rằm Cầu, cầu An Bài… Hoàn thiện 273/273km đường giao thông đồng ruộng nội đồng phục vụ cho cơ giới hóa các khâu làm đất, thu hoạch. Công trình thủy lợi đã được hoàn chỉnh, hiện đại: Toàn huyện có…., trạm bơm tổng công suất……m3/h. Các công trình đầu mối của tỉnh, huyện đảm bảo hoạt động thông suốt. Đã tiến hành kiên cố hóa kênh mương nội đồng và đầu mới được khoảng 50% cơ sở vật chất kỹ thuật thủy lợi, nhìn chung đảm bảo tưới tiêu chủ động cho cây trồng.
100% số hộ dân được cung cấp điện.
Đến nay toàn huyện có 1.600 máy nông nghiệp các loại, máy móc có công suất trên 34 mã lực trở lên: máy làm đất có 145 máy, máy gặt đập liên hợp 118 máy, máy cấy 10 chiếc, khâu làm đất đảm bảo 90% diện tích được cơ giới hóa, khâu gặt đập cơ giới hóa 95% diện tích… Xây dựng được 6 nhà máy nước sạch ở 6 xã khu C và 4 xã khu B và 01 nhà máy nước sạch Bình Mỹ. cơ sở hạ tầng bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin được đầu tư phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ. 100% số xã có dịch vụ bưu chính viễn thông cung cấp dịch vụ Internet. 100% số hộ sử dụng điện thoại cố định và di động.
Các công trình trường học, bệnh xá, bệnh viện, trụ sở làm việc của xã, thị trấn đều được xây dựng kiên cố cao tầng, đầy đủ tiện nghi để hoạt động công trình văn hóa: Nhà lưu niệm Cát Tường được xây dựng.
Vấn đề nông thôn mới: Năm 2010 huyện chỉ đạo thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 ở xã Tiêu Động. Theo đó là việc phấn đấu thực hiện 19 tiêu chí về các mặt xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Đến năm 2015 có 03 xã là An Đổ, Vũ Bản, Tiêu Động được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, thị trấn Bình Mỹ đạt tiêu chí đô thị văn minh, xã An Đổ được xây dựng mô hình nông thôn kiểu mẫu. Cấp huyện đạt 9/9 tiêu chí, đề nghị chính phủ công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới. Các khu đô thị Đô Hai (An Lão); Ba Hàng (Tiêu Động), chợ Sông (Tràng An) được công nhận đô thị loại V.
Kết quả chủ yếu thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn (xem các bảng số liệu sau):